[Longform] Lưới điện ASEAN: Giấc mơ tỷ đô tăng tốc sau nhiều thập kỷ chờ đợi

Lưới điện ASEAN: Giấc mơ tỷ đô tăng tốc sau nhiều thập kỷ chờ đợi

Nhu cầu năng lượng sạch cho các ngành công nghiệp mới cùng áp lực giảm phát thải carbon đang trở thành động lực chính, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập Lưới điện ASEAN vốn đã bị trì hoãn trong nhiều năm.

Sau nhiều thập kỷ gần như không có tiến triển, việc phát triển lưới điện ASEAN kết nối 10 quốc gia thành viên cuối cùng cũng đang được đẩy nhanh.

Trên những sườn núi ở vùng cao nguyên hẻo lánh phía nam Lào, 133 tua-bin gió đã đi vào vận hành từ tháng 9/2025, cung cấp năng lượng cho nhà máy điện gió trên bờ lớn nhất Đông Nam Á.

Dự án Điện gió Monsoon, với công suất lắp đặt 600 megawatt, truyền tải điện qua quãng đường 27 km đến Việt Nam và kết nối với 44 km lưới điện khác theo một thỏa thuận kéo dài 25 năm. Dự án trị giá 950 triệu USD này do một liên danh do Thái Lan dẫn đầu vận hành, với sự tham gia của Tập đoàn Mitsubishi (Nhật Bản) và do Power Construction của Trung Quốc (PowerChina) thi công.

Impact Electrons Siam (IES), công ty năng lượng tái tạo Thái Lan đứng đầu dự án, cho biết có kế hoạch đầu tư thêm 1.7 tỷ USD để bổ sung 1 gigawatt công suất sớm nhất là vào năm 2030. Việc mở rộng này sẽ biến nơi đây thành một trong những cơ sở điện gió lớn nhất châu Á.

Giám đốc điều hành Nat Hutanuwatr chia sẻ với Nikkei Asia: “Ngoài việc cung cấp điện cho Việt Nam, chúng tôi có thể dành một phần công suất để hợp tác với các quốc gia khác, một khi chúng tôi chứng minh được mô hình này khả thi”. “Cánh cửa có thể mở ra cho các nước khác, đặc biệt là Singapore. Họ thực sự đang rất cần nguồn năng lượng này”.

Trang trại gió Monsoon phác họa một phần bức tranh về “siêu lưới điện” mà Đông Nam Á đã hình dung từ hơn ba thập kỷ trước. Lưới điện ASEAN được thiết kế nhằm tăng cường an ninh năng lượng cho khu vực, với mục tiêu vận hành xuyên biên giới tích hợp hoàn toàn vào năm 2045.

Công nhân bảo trì kiểm tra một tua-bin tại Dự án Điện gió Monsoon ở miền nam Lào. Điện năng từ trang trại điện gió trên bờ lớn nhất Đông Nam Á này được xuất khẩu sang nước láng giềng Việt Nam. (Nguồn: Dự án Điện gió Monsoon)

Tuy nhiên, tiến độ chung vẫn còn chậm. Trong số 18 dự án liên kết lưới điện đã được lên kế hoạch, chỉ một nửa được hoàn thành, hầu hết là các dự án trên đất liền, và nhiều dự án vẫn đang trong giai đoạn hoạch định sơ bộ. Sáng kiến này bị cản trở bởi sự thiếu đồng thuận về mặt chính trị và chi phí cao cho việc đi ngầm qua biển. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), khu vực sẽ cần ít nhất 100 tỷ USD vào năm 2045 chỉ để xây dựng các đường dây truyền tải.

Các quan chức ASEAN ước tính tổng chi phí có thể lên tới 764 tỷ USD. Thị trường điện và các tiêu chuẩn kỹ thuật không tương thích cũng là những trở ngại đáng kể.

Dù vậy, các nhà phân tích cho rằng động lực chính trị và công nghiệp đang ngày càng lớn mạnh khi các quốc gia đối mặt với nhu cầu năng lượng sạch tăng vọt, áp lực giảm phát thải carbon và nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực tăng trưởng như trung tâm dữ liệu, cũng như việc đẩy nhanh chuyển dịch sang sản xuất các sản phẩm giá trị cao như chất bán dẫn. Đây là một rủi ro không nhỏ trong một khu vực mà nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm hơn 90% cơ cấu năng lượng.

Các bộ trưởng ASEAN dự kiến sẽ họp tại Kuala Lumpur vào tháng 11/2025, nơi họ được kỳ vọng sẽ vạch ra một lộ trình cho các tiêu chuẩn và quy định chung.

Bà Sharon Seah, thành viên cao cấp tại Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, cho biết: “Trở ngại lớn nhất đối với hội nhập năng lượng là ý chí chính trị để thúc đẩy tầm nhìn”. Tuy nhiên, bà cũng ghi nhận “động lực đang tăng lên” dưới vai trò chủ trì của Malaysia trong khối năm nay. “Các vấn đề về thể chế, quy định và kỹ thuật có thể dễ dàng vượt qua một khi chúng ta có ý chí chính trị”.

Lần đầu được thông qua vào năm 1997, khối khu vực hiện đang đặt mục tiêu đạt hơn 17.5 GW công suất xuyên biên giới vào năm 2040, tăng từ mức 7.7 GW vào năm 2024.

Than đá và khí tự nhiên vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu năng lượng của Đông Nam Á

(Sản lượng điện dự kiến theo nguồn ở Đông Nam Á, tính bằng terawatt-giờ)

Kịch bản theo các chính sách đã công bố

Nguồn: IEA (Cơ quan Năng lượng Quốc tế)

Ông Matthew Wittenstein, một quan chức cấp cao về kết nối năng lượng tại Ủy ban Kinh tế và Xã hội của Liên Hợp Quốc khu vực Châu Á và Thái Bình Dương, cho biết sáng kiến này thiếu sự phân tích sâu sắc trong những năm đầu. Ông nói rằng cách tiếp cận dựa trên sự đồng thuận của ASEAN đã phần nào làm phức tạp hóa nỗ lực dung hòa “bộ ba nan giải về năng lượng” gồm khả năng chi trả, an ninh và tính bền vững.

“Nhưng giờ đây, ngày càng có nhiều người thừa nhận rằng trên thực tế, đây không phải là một sự đánh đổi lớn như các nhà hoạch định chính sách đã giả định”, ông Wittenstein, người đã làm việc về lưới điện trong khoảng một thập kỷ, cho biết thêm. Một nghiên cứu chung của Singapore và Bộ Năng lượng Mỹ năm ngoái dự báo rằng thương mại điện trong khu vực có thể thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của ASEAN thêm 0.8 điểm phần trăm lên 4.6% và tạo ra từ 2 ngàn đến 9 ngàn việc làm mỗi năm.

Trong khi đó, một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Kinh tế cho ASEAN và Đông Á (ERIA) ước tính chi phí điện cho người tiêu dùng có thể giảm tới 3.9% với một lưới điện khu vực được tích hợp tốt hơn.

Nhu cầu năng lượng tăng vọt càng nhấn mạnh tầm quan trọng của lưới điện. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, Đông Nam Á đang trên đà chiếm 1/4 mức tăng trưởng nhu cầu năng lượng toàn cầu cho đến năm 2035, chỉ đứng sau Ấn Độ. Nhu cầu năng lượng của khu vực dự kiến sẽ vượt qua Liên minh châu Âu (EU) vào giữa thế kỷ. Tám thành viên ASEAN đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng không, hầu hết vào năm 2050, trong đó Philippines và Myanmar là hai quốc gia duy nhất chưa có mục tiêu này.

Bà Nadhilah Shani, người đứng đầu bộ phận sản xuất và liên kết điện tại Trung tâm Năng lượng ASEAN, cho biết: “Mọi quốc gia hiện nay đều có các mục tiêu khí hậu cần đạt được, và để làm được điều đó, họ không thể hành động một mình”. Một báo cáo chung của Bain & Company và nhà đầu tư nhà nước Singapore Temasek Holdings ước tính rằng việc mở rộng kết nối khu vực có thể cắt giảm chi phí giảm phát thải carbon tới 800 tỷ USD, tương đương 11%, so với việc mỗi quốc gia tự hành động.

Dự án điện gió Monsoon cũng không hề thuận buồm xuôi gió. Mặc dù việc xây dựng chỉ mất hơn hai năm và hoàn thành trước kế hoạch 4 tháng, nhưng quá trình lập kế hoạch và đàm phán đã kéo dài hơn một thập kỷ kể từ khi bắt đầu vào năm 2011, theo nhà điều hành IES. Giám đốc điều hành Nat nhớ lại rằng “không dễ dàng” để thuyết phục các chính phủ mua năng lượng gió, vì nhiều người coi năng lượng tái tạo là “một gánh nặng thay vì một tài sản”.

Một trang trại điện mặt trời tại nhà ga Keppel ở Singapore. Quốc đảo này đã trở thành một trong những bên ủng hộ mạnh mẽ nhất cho hoạt động mua bán điện trong khu vực. Ảnh: Reuters

Cuối cùng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đồng ý mua điện với điều kiện giá cả phải chăng và phía công ty Thái Lan phải tự thực hiện tất cả các nghiên cứu cần thiết để xác định các điểm kết nối phù hợp. Hợp đồng mua bán điện đã được ký kết với EVN vào năm 2022.

Sự hỗ trợ từ các nhà đầu tư cũng rất quan trọng. ADB, đã hợp tác với IES từ năm 2015 và dẫn đầu quá trình thẩm định, đã thu xếp một gói tài chính trị giá 692.6 triệu USD, kết hợp các khoản vay ưu đãi và tài trợ từ các bên cho vay tư nhân, bao gồm Siam Commercial Bank và Kasikornbank của Thái Lan, cũng như Sumitomo Mitsui Banking Corp của Nhật Bản.

Giám đốc Năng lượng của ADB, Keiju Mitsuhashi, mô tả đây là một “dự án mẫu mực” thể hiện cam kết của ngân hàng. Vào tháng 4/2025, ADB đã cam kết hỗ trợ tới 10 tỷ USD cho Lưới điện ASEAN mở rộng.

Với diện tích đất hạn chế cho năng lượng tái tạo, Singapore đã nổi lên như một trong những quốc gia ủng hộ mạnh mẽ nhất cho hoạt động mua bán điện trong khu vực. Năm 2024, quốc đảo này đã nâng mục tiêu nhập khẩu lên tới 6 GW điện carbon thấp vào năm 2035, chiếm khoảng 1/3 nguồn cung điện của họ trong năm đó. Khí tự nhiên hiện chiếm hơn 90% cơ cấu nhiên liệu của Singapore. Thủ tướng Lawrence Wong đã mô tả việc tiếp cận năng lượng sạch là “một mệnh lệnh quốc gia quan trọng”.

“Các ngành công nghiệp của tương lai – trí tuệ nhân tạo, chất bán dẫn, dược phẩm sinh học – đều tiêu tốn rất nhiều năng lượng”, ông Wong phát biểu trong một bài diễn văn về ngân sách vào tháng 2/2025. “Để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng này và đồng thời giảm lượng khí thải carbon, chúng ta sẽ cần nhiều năng lượng sạch hơn”.

Vào tháng 9/2025, Singapore đã tăng gấp đôi công suất nhập khẩu điện từ Lào và Malaysia lên 200 MW và gia hạn thỏa thuận mua bán điện thêm hai năm. Được khởi động vào năm 2022, Dự án Hội nhập Điện năng Lào-Thái Lan-Malaysia-Singapore (LTMS-PIP) đã trở thành thỏa thuận mua bán điện đa phương đầu tiên trong khu vực.

Nước láng giềng Malaysia, đối mặt với nhu cầu năng lượng tăng vọt từ các trung tâm dữ liệu, cũng đã ưu tiên các liên kết xuyên biên giới. Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 5/2025, Kuala Lumpur đã nhất trí với Singapore và Việt Nam về việc nghiên cứu khả năng truyền tải điện tái tạo từ Việt Nam qua Malaysia đến Singapore thông qua sự kết hợp của các kết nối mới dưới biển và trên đất liền.

Sarawak, trung tâm thủy điện của Malaysia, có kế hoạch kết nối với bang Sabah lân cận vào cuối năm nay thông qua một đường cáp dài 34 km. Sarawak Energy cũng đang hợp tác với Sembcorp Industries và SP Group tại Singapore về kế hoạch xuất khẩu 1 GW điện sang quốc đảo này thông qua một đường cáp ngầm dưới biển. Một đại diện của Sarawak Energy cho biết: “Sẽ không có quá trình chuyển đổi nếu không có sự truyền tải”.

Các đối tác nước ngoài đang nhắm đến các cơ hội. Theo Zero Carbon Analytics, đầu tư vào năng lượng tái tạo của ASEAN đã tăng 15% mỗi năm kể từ năm 2020, so với mức 11% trên toàn cầu, đạt 43 tỷ USD vào năm 2022. Trung Quốc vẫn là nhà đầu tư lớn nhất, với 2.7 tỷ USD cam kết trong giai đoạn 2013-2023, nhưng Nhật Bản và Hàn Quốc đang đóng vai trò ngày càng lớn, đóng góp lần lượt 2.45 tỷ USD và 583 triệu USD.

Nhưng Lưới điện ASEAN vẫn phải đối mặt với những rào cản đáng gờm. Không giống như Liên minh châu Âu, khu vực này thiếu một thị trường điện chung và các quy định lưới điện đồng bộ, buộc các nhà phát triển phải xoay xở với các tiêu chuẩn kỹ thuật và chế độ pháp lý khác nhau. Hầu hết các sáng kiến hiện tại chỉ giới hạn ở việc mua bán điện song phương, chỉ có một số ít nỗ lực đa phương đang được tiến hành. Các kết nối đa phương của LTMS-PIP, thường được ca ngợi là một bước đột phá, về cơ bản vẫn là một giao dịch một chiều và chủ yếu dựa vào cơ sở hạ tầng hiện có.

Một trở ngại chính khác là sự khác biệt trong cấu trúc thị trường. Singapore vận hành một thị trường bán buôn điện tự do hóa, nơi nhiều nhà sản xuất cạnh tranh để bán điện vào lưới. Ngược lại, Thái Lan, Lào và Malaysia sử dụng mô hình người mua duy nhất, trong đó các công ty điện lực nhà nước là bên mua độc quyền.

Những người phụ nữ nhìn về phía nhà máy nhiệt điện than Suralaya ở Cilegon, Indonesia. Nhiên liệu hóa thạch dự kiến sẽ tiếp tục đóng vai trò nổi bật trong sản xuất điện của Đông Nam Á trong nhiều thập kỷ tới. Ảnh: AP

“Trong khi các quốc gia có thể giữ quyền tự quyết đối với thị trường bán lẻ trong nước, một mức độ hội nhập nhất định có thể tạo điều kiện cho việc hình thành một thị trường bán buôn trong khu vực”, bà Seah của Viện ISEAS-Yusof Ishak cho biết.

Việc kết nối các quốc đảo bằng cáp ngầm dưới biển cũng tốn kém hơn rất nhiều so với việc xây dựng lưới điện trên đất liền. Nỗ lực kết nối đa phương đang diễn ra của ASEAN, Dự án Hội nhập Điện năng Brunei-Indonesia-Malaysia-Philippines (BIMP-PIP), sẽ bao gồm các đường cáp ngầm đắt đỏ và hướng tới dòng chảy hai chiều của năng lượng địa nhiệt, mặt trời và thậm chí cả hydro. Điều này khiến dự án trở nên phức tạp hơn nhiều so với LTMS-PIP.

Các nhà phân tích cho rằng Hội nghị thượng đỉnh ASEAN sắp tới sẽ là một phép thử để xem liệu các nhà lãnh đạo có thể vượt qua các thỏa thuận song phương chắp vá để hướng tới một lưới điện khu vực thực sự hay không, một sự thay đổi sẽ đòi hỏi những nâng cấp lớn. Bộ chuyển đổi năng lượng của Malaysia cho biết các quốc gia thành viên dự kiến sẽ ký một biên bản ghi nhớ tăng cường về lưới điện, bao gồm việc hài hòa hóa quy định và kỹ thuật, cũng như một cơ chế tài chính cho thương mại xuyên biên giới.

“Ở cấp độ ASEAN, cần có một thỏa thuận đa phương để cung cấp một khuôn khổ rõ ràng cho việc áp dụng ở mỗi quốc gia”, ông Ardhi Rasy Wardhana thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Indonesia cho biết. “Nếu không có điều đó, các thỏa thuận song phương vẫn dễ bị tổn thương trước những biến động của giá hàng hóa; vì về cơ bản chúng hoạt động như hoạt động xuất nhập khẩu, chúng có nguy cơ bị vũ khí hóa và gây tổn hại cho một bên”.

Quốc An (Theo Nikkei Asia)

FILI

– 16:49 03/10/2025


Các Sàn forex Uy Tín:

Icmarkets

Exness

Source link

Comments are closed.