Chính sách tiền tệ linh hoạt, bám sát thực tiễn đã góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng tham gia trả lời tại phiên chất vấn
Thống đốc cho biết, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam có độ mở cửa lớn, điều hành chính sách tiền tệ là nhiệm vụ khó khăn vì chịu tác động bởi nhiều diễn biến phức tạp, đòi hỏi thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ. Tuy nhiên những năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, bám sát diễn biến thực tế, áp dụng các công cụ và giải pháp phù hợp để góp phần kiểm soát lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô; ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối; đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng…
Dưới góc độ cơ quan điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, là một trong những cơ quan điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, Ngân hàng Nhà nước nhận thấy sau 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Vì vậy, việc đánh giá và rà soát các động lực tăng trưởng kinh tế để làm mới các động lực là nhiệm vụ rất cần thiết. Đây cũng là yêu cầu của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quốc hội, đòi hỏi chúng ta phải quyết liệt thực hiện trong giai đoạn đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Tại phiên chất vấn sáng nay, các đại biểu Quốc hội đã đặt nhiều câu hỏi sâu sắc, nêu lên các vấn đề để Chính phủ và các cơ quan nghiên cứu thực hiện, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tối thiểu 8% trong năm 2025, tạo nền tảng cho giai đoạn tăng trưởng hai con số trong các năm tiếp theo.
Từ góc độ động lực đầu tư, Thống đốc cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào vốn, nhưng hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Điều này thể hiện qua chỉ số ICOR của Việt Nam, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới, như Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã nêu. Do đó, chúng ta cần phải có giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
“Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn FDI. Tuy nhiên, chúng ta chưa tận dụng tối đa lợi thế về nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị, và chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước. Vì vậy, cần đổi mới chiến lược thu hút vốn FDI trong giai đoạn tới, tập trung vào chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, và gắn kết mạnh mẽ hơn với nền kinh tế trong nước”, Thống đốc phát biểu, đồng thời nhấn mạnh: “Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, với vai trò cơ quan đầu mối điều phối kinh tế vĩ mô, đã khẳng định rằng, để đạt tăng trưởng kinh tế cao, chúng ta phải dựa vào cả nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn đồng tình với quan điểm này và đây cũng là quan điểm NHNN nêu tại nhiều hội nghị. Vốn nước ngoài bao gồm nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, và vay nợ nước ngoài. Với các chỉ tiêu nợ công và nợ nước ngoài hiện nay, Việt Nam vẫn còn dư địa để mở rộng thu hút vốn nước ngoài. Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cũng khẳng định có thể bố trí đầy đủ nguồn vốn và đảm bảo an toàn các chỉ tiêu nợ công, nợ nước ngoài”.
Từ kinh nghiệm điều hành kinh tế vĩ mô, Thống đốc cũng nêu một số điểm cần lưu ý như:
– Vốn trong nước phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung và dài hạn. Dư nợ tín dụng trên GDP cuối năm 2024 đạt 134%, mức cao so với nhiều nước. Nếu tiếp tục dựa quá nhiều vào tín dụng ngân hàng, sẽ tiềm ẩn rủi ro hệ thống cho nền kinh tế, khó đạt được mục tiêu vừa tăng trưởng cao vừa đảm bảo bền vững.
– Từ nay đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam dự kiến triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn, như: Xây dựng thêm 2.000 km đường cao tốc để đạt tổng cộng 5.000 km vào năm 2030 theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra; Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam với giá trị đầu tư lớn; Các dự án sân bay, bến cảng, triển khai việc thực hiện Quy hoạch điện VIII, cùng với cam kết mục tiêu Net Zero vào năm 2050 theo cam kết tại COP 26. Để thực hiện các dự án này, bộ, ngành chức năng cần tính toán cụ thể nguồn vốn, khả năng huy động, khả năng vay vốn, thời gian, phân kỳ, các phương án dự phòng về vốn, đảm bảo các dự án khởi công có đủ vốn, không bị động, và không tạo áp lực lớn lên rủi ro vĩ mô. Điều này sẽ giúp đạt tăng trưởng cao, đồng thời đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô theo đúng tinh thần các nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quốc hội.
Từ góc độ động lực tiêu dùng và xuất khẩu, Thống đốc cho biết, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu. Với độ mở cửa kinh tế lớn, chúng ta chịu tác động mạnh từ các biến động kinh tế vĩ mô, tiền tệ toàn cầu, đặc biệt ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất khẩu. Do đó, cần đồng thời đẩy mạnh khai thác động lực từ tiêu dùng nội địa, tận dụng lợi thế thị trường hơn 100 triệu dân. Đây là định hướng mà Chính phủ đang tập trung, nhưng cần triển khai hiệu quả hơn.
Ngoài các động lực truyền thống như đầu tư, tiêu dùng, và xuất khẩu, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh cần tạo động lực tăng trưởng thông qua đột phá về công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số. Đây là cách để nâng cao năng suất, đạt tăng trưởng hai con số. Ngoài ra, các vấn đề cản trở tăng trưởng dài hạn cần được đặc biệt quan tâm, bao gồm: Biến đổi khí hậu, khi Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề; Nguy cơ già hóa dân số, đòi hỏi các giải pháp từ bây giờ để tránh ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn.
Với vai trò hệ thống ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, Thống đốc cho biết, ngành Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi để cho vay, từ đó kích hoạt, dẫn dắt và lan tỏa đến các động lực tăng trưởng như đầu tư, tiêu dùng, và xuất khẩu. Trong những năm qua, tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng trưởng khoảng 14-15% mỗi năm, mức cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Dư nợ tín dụng trên GDP đạt 134% vào cuối năm 2024, cho thấy vai trò quan trọng của tín dụng trong phát triển kinh tế, hỗ trợ cả sản xuất, tiêu dùng, và xuất khẩu.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8% trở lên trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước đã đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16%, và có thể điều chỉnh linh hoạt nếu lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.
Với vai trò cung cấp dịch vụ thanh toán và tài chính, hệ thống ngân hàng đã và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đa dạng hóa các dịch vụ tiện ích để phục vụ doanh nghiệp và người dân. Ngành ngân hàng là một trong những ngành tiên phong trong ứng dụng chuyển đổi số, giúp doanh nghiệp và người dân tiết kiệm thời gian giao dịch, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Cải thiện môi trường kinh doanh ổn định qua điều hành chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam có độ mở cửa lớn, điều hành chính sách tiền tệ là nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu. Tuy nhiên trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, bám sát diễn biến thực tế, áp dụng các công cụ và giải pháp với thời điểm, liều lượng phù hợp để góp phần kiểm soát lạm phát ở mức thấp; ổn định kinh tế vĩ mô; ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối; đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Thống đốc khẳng định, đây là yếu tố căn cốt, bởi nếu môi trường kinh tế vĩ mô, tiền tệ, và ngoại hối biến động mạnh như đã từng xảy ra trước đây, doanh nghiệp sẽ khó phát triển, đặc biệt là khó đạt tăng trưởng kinh tế cao.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục bám sát diễn biến tình hình để chủ động ứng phó với những biến đổi khó lường, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng nhanh, bền vững.
Tuy nhiên, Thống đốc cho rằng, ngoài nỗ lực của ngành ngân hàng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, như đã nêu ở trên.
Liên quan đến chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khi vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn, và áp dụng tiêu chuẩn ESG theo Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Thống đốc cho biết, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng đã trả lời rằng nguồn hỗ trợ lãi suất này đến từ ngân sách nhà nước. Hiện nay, Bộ Tài chính đang xây dựng kênh cho vay thông qua các quỹ tài chính.
Trong trường hợp vay từ các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để ban hành hướng dẫn rõ ràng, khắc phục các bất cập của gói hỗ trợ lãi suất 2% trong chương trình phục hồi kinh tế trước đây. Ngân hàng Nhà nước đã gửi văn bản đề xuất đến Bộ Tài chính, cân nhắc lồng ghép thông qua chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp để hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn theo đối tượng của Nghị quyết 68.
“Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan để triển khai hiệu quả các chủ trương của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, và Quốc hội”, Thống đốc phát biểu.
Các Sàn forex Uy Tín:
Icmarkets
Exness
IQOption
Deriv
Source link
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.